Trong kỹ nguyên số như hiện nay, việc doanh nghiệp quảng cáo sản phẩm trực tuyến trên các kênh Facebook, Google ... đang khá phổ biến.
Google và Facebook hiện đang cung cấp dịch vụ quảng cáo trực tuyến cho thị trường Việt Nam thông qua các đại lý tại Việt Nam hoặc mua bán trực tuyến và thanh toán trực tuyến qua thẻ tài khoản tín dụng hoặc ví điện tử.
Việc quảng cáo trực tuyến của các công ty nước ngoài thường không đăng ký kinh doanh và không có văn phòng đại diện chính thức tại Việt Nam, nên về mặt chứng từ gây ra nhiều tranh cải giữa thuế và kế toán. Liệu chứng từ thanh toán trực tuyến qua thẻ tài khoản tín dụng hoặc ví điện tử có hợp lệ? có được cơ quan thuế chấp nhận?
Về chính sách thuế GTGT
Theo Khoản 6, Điều 1 Luật số 31/2013/QH13 sửa đổi, bổ sung Điều 12 Luật thuế GTGT số 13/2008/QH12 quy định về khấu trừ thuế GTGT đầu vào như sau:
“Điều 12. Khấu trừ thuế GTGT đầu vào
1. Cơ sở kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế được khấu trừ thuế GTGT đầu vào như sau:
a) Thuế GTGT đầu vào của hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT được khấu trừ toàn bộ, kể cả thuế GTGT đầu vào không được bồi thường của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT bị tổn thất;…
2. Điều kiện khấu trừ thuế GTGT đầu vào được quy định như sau:
a) Có hoá đơn GTGT mua hàng hoá, dịch vụ hoặc chứng từ nộp thuế GTGT ở khâu nhập khẩu;
b) Có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào, trừ hàng hoá, dịch vụ mua từng lần có giá trị dưới hai mươi triệu đồng;
c) Đối với hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu, ngoài các điều kiện quy định tại Điểm a và Điểm b khoản này còn phải có: Hợp đồng ký kết với bên nước ngoài về việc bán, gia công hàng hoá, cung ứng dịch vụ; hoá đơn bán hàng hoá, dịch vụ; chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt; tờ khai hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu.
Việc thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu dưới hình thức thanh toán bù trừ giữa hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu với hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu, trả nợ thay Nhà nước được coi là thanh toán không dùng tiền mặt”.
Mặt khác, tại Khoản 1, Điều 14 Thông tư số 219/2013/TT-BTC hướng dẫn nguyên tắc khấu trừ thuế GTGT đầu vào như sau:
“1. Thuế GTGT đầu vào của hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT được khấu trừ toàn bộ, kể cả thuế GTGT đầu vào không được bồi thường của hàng hóa chịu thuế GTGT bị tổn thất…”.
“1. Thuế GTGT đầu vào của hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT được khấu trừ toàn bộ, kể cả thuế GTGT đầu vào không được bồi thường của hàng hóa chịu thuế GTGT bị tổn thất…”.
Như vậy, điều kiện khấu trừ thuế GTGT:
- Hàng hóa, dịch vụ liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,
- Có hóa đơn GTGT hợp pháp, hoặc chứng từ nộp thuế GTGT ở khâu nhập khẩu, hoặc chứng từ nộp thuế GTGT thay cho phía nước ngoài không có tư cách pháp nhân Việt Nam và cá nhân nước ngoài kinh doanh hoặc có thu nhập phát sinh tại Việt Nam.
- Chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt hàng hóa, dịch vụ có giá trị từ 20 triệu đồng trở lên.
Do vậy, nếu quảng cáo trên Facebook, Google mà doanh nghiệp không có hóa đơn hoặc hóa đơn không ghi đầy đủ các chỉ tiêu (tên công ty, địa chỉ, mã số thuế) thì không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào.
Nếu quảng cáo trên Google và Facebook thông qua các đại lý tại Việt Nam có hóa đơn và đủ điều kiện khấu trừ (như trên) thì thuế GTGT đầu vào quảng cáo phục vụ sản xuất kinh doanh được khấu trừ.
Về chính sách thuế TNDN
Về nguyên tắc, các khoản chi của doanh nghiệp cho hoạt động quảng cáo trên các trang mạng xã hội (yahoo, facebook, google,…) cũng như các nhà mạng trong và ngoài nước đều được tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chiụ thuế TNDN nếu có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và có đủ chứng từ hoặc hoá đơn hợp pháp.
Căn cứ Điều 4 Thông tư số 96/2015/TT-BTC hướng dẫn về thuế TNDN (sửa đổi, bổ sung Điều 6 Thông tư số 78/2014/TT-BTC) để chi phí quảng cáo trên Google và Facebook được đưa vào chi phí hợp lý khi tính thuế TNDN, cần các chứng từ sau:
Căn cứ Điều 4 Thông tư số 96/2015/TT-BTC hướng dẫn về thuế TNDN (sửa đổi, bổ sung Điều 6 Thông tư số 78/2014/TT-BTC) để chi phí quảng cáo trên Google và Facebook được đưa vào chi phí hợp lý khi tính thuế TNDN, cần các chứng từ sau:
Đối với các nhà mạng/nhà quảng cáo đăng ký trong nước thì cần có cách chứng từ là: Hợp đồng/chào hàng-chấp nhận hoặc đặt hàng qua email hay phương thức phù hợp với Luật Thương mại, Luật Giao dịch điện tử, Luật công nghệ thông tin; Hoá đơn GTGT, và chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt (nếu tổng trị giá hoá đơn từ 20 triệu đồng/lần trở lên).
Đối với các nhà mạng/nhà quảng cáo quốc tế (không đăng ký thuế tại Việt Nam) thường không có Hợp đồng dạng văn bản giấy và Hoá đơn loại giống như của Việt Nam mà thường có các điều khoản giao kết ngay trên trang quảng cáo và thanh toán trực tuyến qua thẻ tài khoản tín dụng hoặc ví điện tử. Bộ chứng từ cần thiết để doanh nghiệp được tính vào chi phí được trừ có thể bao gồm:
- Quy chế của đơn vị về việc mua các dịch vụ qua mạng, trong đó có quảng cáo phù hợp với các Luật của Việt Nam;
- Đề xuất bằng văn bản của bộ phận kinh doanh cần quảng cáo với cấp trên, kèm theo bản in các điều khoản mà nhà mạng/trang quảng cáo đó đưa ra (giá cả, phương thức quảng cáo, cách trả tiền, thời gian quảng cáo,…) được Lãnh đạo DN phê duyệt.
- Báo cáo nghiệm thu hoặc chứng từ chứng minh rằng yêu cầu quảng cáo của doanh nghiệp đã được thực hiện theo như đề xuất trên;
- Chứng từ thanh toán (quy định tại Khoản 3, Điều 15 Thông tư số 219/2013/TT-BTC): Sao kê ngân hàng kèm uỷ nhiệm chi, séc,… của doanh nghiệp chứng minh việc thanh toán tiền trả cho trang quảng cáo;
Về thuế nhà thầu
Theo Khoản 2, Điều 4 Thông tư số 103/2014/TT-BTC về người nộp thuế quy định: “… Người nộp thuế theo hướng dẫn tại Khoản 2, Điều 4 Chương I có trách nhiệm khấu trừ số thuế GTGT, thuế TNDN hướng dẫn tại Mục 3 Chương II trước khi thanh toán cho Nhà thầu nước ngoài, Nhà thầu phụ nước ngoài”.
Cung theo Thông tư số 103/2014/TT-BTC tại Tại Khoản 1, Điều 6 quy định về đối tượng chịu thuế GTGT: “1. Dịch vụ hoặc dịch vụ gần với hàng hoá thuộc đối tượng chịu thuế GTGT do Nhà thầu nước ngoài, Nhà thầu phụ nước ngoài cung cấp trên cơ sở hợp đồng nhà thầu, hợp đồng nhà thầu phụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng tại Việt Nam (trừ trường hợp quy định tại Điều 2 Chương I)...”.
Khoản 3, Điều 20 Thông tư số 156/2013/TT-BTC dẫn về quản lý thuế quy định về khai thuế đối với trường hợp Nhà thầu nước ngoài nộp thuế GTGT tính trực tiếp trên GTGT, nộp thuế TNDN theo tỷ lệ % tính trên doanh thu: “Bên Việt Nam ký hợp đồng với Nhà thầu nước ngoài khấu trừ và nộp thuế thay cho Nhà thầu nước ngoài và nộp hồ sơ khai thuế, hồ sơ khai quyết toán thuế cho cơ quan thuế quản lý trực tiếp của bên Việt Nam”.
Do đó, trường hợp Google, Facebook (Nhà thầu nước ngoài) ký hợp đồng với Công ty tại Việt Nam (bên Việt Nam) để cung cấp dịch vụ quảng cáo trên ứng dụng Google, Facebook và phát sinh thu nhập tại Việt Nam thì Google, Facebook thuộc đối tượng nộp thuế nhà thầu (thuế GTGT, thuế TNDN) tại Việt Nam.
Công ty Việt Nam có trách nhiệm khai, khấu trừ và nộp thuế thay cho Nhà thầu nước ngoài theo quy định.
Biểu tượngBiểu tượng